CLB Karate Tam Anh - Núi Thành

Contact information, map and directions, contact form, opening hours, services, ratings, photos, videos and announcements from CLB Karate Tam Anh - Núi Thành, Sports Team, Quang Nam.

Photos from CLB Karate Tam Anh - Núi Thành's post 12/05/2024

Học võ đâu phải chỉ có Đấm - Đá - Vật...

11/05/2024

CÂU LẠC BỘ KARATE-DO TAM ANH BẮC THÔNG BÁO CHIÊU SINH NĂM 2024

Thường niên, CLB KARATE-DO TAM ANH BẮC chiêu sinh mỗi năm 1 lần.
Thời gian chiêu sinh trong vòng 1 tháng từ ngày 30/5 và liên tục ghi danh đến ngày 30/6.

Buổi lễ khai giảng khoá mới và họp phụ huynh năm 2024 sẽ diễn ra vào 17h45 thứ 5 ngày 30/5/2024.

Kính mời quý phụ huynh, võ sinh và các bạn thanh thiếu niên có nhu cầu ghi danh tập luyện tại CLB tham dự buổi lễ.

Mọi thông tin xin liên hệ Chủ nhiệm CLB theo số điện thoại : 0796.757.959

03/04/2024

Oss...

10/10/2023

Trong sân tập - điều cần học không phải chỉ có đấm đá.

01/10/2023

DACHI waza

25/09/2023

NIHON NUKITE

Kỹ thuật tấn công bằng hai ngón tay là một kỹ thuật nguy hiểm, do đó nó bị cấm trong thi đấu thể thao. Tuy nhiên, nó rất hiệu quả trong các tình huống tự vệ, đặc biệt đối với nữ.
Trên cơ thể người có rất nhiều vùng đánh gây nguy hiểm, sát thương cao, thậm chí gây chết người như: Thần đình (phía sau chân tóc trán 0,5 thốn, hoặc có thể đo thẳng từ ấn đường lên 3,5 thốn); Thái dương (đuôi mắt đo ra sau khoảng 1 thốn); Đản trung (trung điểm của đường thẳng qua 2 núm vú (đàn ông), qua 2 bờ trên đầu xương sườn 4 (phụ nữ); Cự khuyết (trên rốn 6 thốn); Thần khuyết (chính giữa rốn); Quan nguyên (thẳng rốn đo xuống 3 thốn)…
Tuy nhiên có 4 vùng dễ dàng nhận biết, dễ dàng ra đòn hạ được đối thủ giải thoát bản thân.
- Hai mắt
- Yết hầu
- Chấn thuỷ
- Hạ bộ
Nihon Nukite là kỹ thuật sử dụng đánh vào hai mắt trong các tình huống bị khống chế phía trước. Tất nhiên nó đòi hỏi sự chính xác rất lớn. Vì vậy, cần luyện tập thường xuyên cả hình lẫn ý.

Nguồn: Cộng đồng Karate Việt Nam.

Photos from CLB Karate Tam Anh - Núi Thành's post 15/09/2023

Sơ lược tiểu sử Tổ sư SUZUKI CHOJI
(Phan Văn Phúc)
(10 - 06 - 1919 – 06 - 02 -1995)
HỆ PHÁI SUZUCHO KARATE-DO

Suzuki Choji (Suzuki Choji : Linh Mộc Trường Trị : 鈴 木 長 治). Suzucho là từ ghép họ và tên ông - Người sáng lập hệ phái. Suzucho (Linh Trường : 鈴 長) có ý nghĩa khát vọng lưu lại sự nghiệp trường tồn như tiếng chuông ngân xa. Suzuki Choji (Choji Suzuki) sinh ngày 10 tháng 06 năm 1919 tại Thành phố Tagajo Shi, Tỉnh Miyagiken miền bắc Nhật Bản. Ông là người con cả trong một gia đình có 4 anh em : Suzuki Choji, Suzuki Minoru, Suzuki Masako và Suzuki Isao. Suzuki là một dòng họ quyền quý danh gia ở Nhật Bản tại miền đất Matsushima. Từ năm 8 tuổi đến năm 18 tuổi, ông học Tiểu học và Trung học ở Kasagami. Trong thời gian này ông tập Nhu đạo ở trường Kasagami và năm 13 tuổi, ông được thân phụ gửi đến thọ giáo với một thiền sư dạy Karate trong vùng đó là Thầy Sigimoto Tadao, có nguồn gốc võ thuật từ Naha - Te
Ẩn cư tu tập :
Thời gian này, ở Nhật Bản các phái võ đều bị cấm đoán. Một vị tu sĩ Phật giáo đã giúp ông ẩn cư trong một tu viện trên núi suốt cả ngày lẫn đêm để luyện tập Karate-Do (Không Thủ Đạo : 空 手 道), Jujitsu (Nhu Thuật : 柔 術) trong những điều kiện hết sức khó khăn. Có lẽ vì thế, sau này ông chọn Thành phố Huế cổ kính và sâu lắng làm nơi ẩn cư và phát triển võ học. Kỷ niệm này ông vẫn thường kể lại cho những người thân và học trò của mình. Ba tháng đầu tiên tất cả những gì Suzuki Choji phải làm là hằng ngày ông ngồi dùng tay chụp bắt những con ruồi bâu vào chén có chứa đường hoặc nó bay trước mặt. Đó là một cách để rèn luyện lòng kiên nhẫn và sự phản xạ nhanh nhẹn của tay và mắt. Và cứ như thế, ông tập luyện cho đến khi nào cảm thấy đôi cánh tay mình như muốn rời ra. Đó là cũng một thử thách đầu tiên để xem Suzuki Choji có chấp nhận được hay không và ông đã vượt qua. Ba năm sau, ông được Đại sư Asano Zenkisti (sư phụ của Thầy Sigimoto Tadao) huấn luyện để trở thành một tu sĩ. Asano cũng có mối quan hệ thân tình với thân phụ Suzuki Choji. Asano Zenkisti tiếp tục truyền dạy Karate Hệ phái Take No Uchi Ryu (Trúc Chi Nội Lưu : 竹 之 内 流) cho ông, đó là một trong những hệ phái Karate cổ nhất. Suzuki Choji đã luyện tập chăm chỉ trong tám năm. Mỗi buổi sáng sớm, ông đều phải chạy lên đỉnh núi để tập luyện. Mùa đông, chỉ với bộ võ phục mong manh, hằng ngày ông vẫn kiên trì ngồi trên tảng đá đầy tuyết và trầm tư tham thiền mặc cho cơ thể chống chọi lại với những cơn gió lạnh nhất. Đến năm 21 tuổi, Suzuki Choji rời tu viện sau đó được Thiền sư Kisa Buroo, trụ trì ngôi chùa Shiogama Shinza nổi tiếng tại Thành phố Shiogama, Tỉnh Miyagiken (cạnh Thành phố Tagajo Shi, Miyagiken nơi ông sinh sống) truyền thụ Karate và pháp môn Thiền tông Tào Động (Tsao-t'ung hay Soto) do Thiền sư Dogen Kigen (1200-1253) sáng lập. Ông là một trong ba cao đồ hiếm hoi của Đại sư Kisa Buroo. Thời gian này Suzuki Choji là sinh viên của Trường Đại học Y khoa Tokyo và vừa làm thêm ở một hãng xe ô tô ở Thủ đô Tokyo Nhật Bản. Suzuki Choji rất say mê môn võ Karate và nghiên cứu Phật học.
Phát triển võ học :
Năm ông 21 tuổi, Suzuki Choji đã đạt tới sự hiểu biết đúng đắn các kỹ chiến pháp và triết lý của môn võ Karate thì cũng là lúc ông phải gia nhập quân đội Thiên Hoàng vào năm 1940. Ông đã rời quân trường sang Mãn Châu năm 1942. Sau đó, ông sang Mã Lai năm 1943. Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, một tàu chiến của Nhật Bản mà ông tham gia chiến đấu đã bị chìm trên biển Thái Bình Dương. Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển với tấm ván nhỏ, ông được một tàu đánh cá cứu sống rồi tới Việt Nam năm 1944. Đến năm 1945, Nhật đầu hàng, kết thúc Chiến tranh Thế giới lần thứ hai ông ở lại Việt Nam tham gia Mặt trận Việt Minh và công tác ở Liên khu 4 (Thanh Hoá). Sau đó, ông chuyển vào Liên khu 5 (Quảng Ngãi) phụ trách xưởng sản xuất dụng cụ y tế tại vùng Chợ Chùa cung cấp cho Mặt trận và dạy những bài võ Karate đầu tiên cho du kích, tự vệ. Đến năm 1952, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Minh Lệ (Cô Năm) - Người nữ cứu thương của Liên khu năm gốc Tam Quan - Bình Định và lấy họ tên Việt là Phan Văn Phúc. Họ có các người con là : Suzuki Michiko (Phan Thị Ngọc Mỹ), Suzuki Tokuo (Phan Văn Minh Đức), Suzuki Eiji (Phan Văn Minh Ý), Suzuki Yoko (Lý Vĩnh Trân), v.v... và các cháu. Sau Hiệp định Geneve 1954, đến tháng 11 năm 1959 ông cùng gia đình chọn Thành phố Huế làm nơi sinh sống và phát triển võ học. Năm 1960, Suzuki Choji thành lập Đạo đường : Suzucho Karate-Do Ryu Suzuki Dojo No En (Tiếng chuông ngân xa ; nơi cánh cửa rộng mở không phân biệt để ai cùng chung niềm đam mê đến rèn luyện tự vệ và tu dưỡng đạo đức, ngăn chặn tương tranh, chiến thắng chính mình) tại số 8 - Võ Tánh (hiện nay là số 8 đường Nguyễn Chí Thanh, Thành phố Huế) để dạy Karate-Do và Judo, khai sinh Hệ phái Suzucho Karate-Do (鈴 長 空 手 道) Mặc dù vậy, đến năm 1963 Đạo đường (võ đường) mới chính thức hoạt động.
Đất Thần kinh nguyên là miền đất võ - nơi phát tích, ươm mầm hội tụ của rất nhiều võ phái cổ truyền những thế kỷ trước, đặc biệt từ triều Nguyễn nhưng Karate vẫn có sức thuyết phục thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên tại địa phương này. Tuy nhiên, Thầy Suzuki Choji chỉ chọn năm, bảy học trò để truyền dạy võ học của mình với môn quy rất nghiêm khắc. Môn sinh không chỉ rèn luyện thể chất mà còn tinh thần nhân văn, thượng võ; học đối nhân xử thế, đoàn kết hiếu kính, chiến thắng bản thân qua võ thuật đến với Đạo để sau này họ còn tiếp nối phát triển hệ phái Suzucho Karate-Do. Mặc dù vậy trong quá trình học tập vẫn có học trò làm Thầy không vui nhưng họ luôn được cảm hoá bằng lòng vị tha và tình yêu thương. Thầy, Cô Suzuki rất thương yêu học trò, luôn tạo điều kiện cho những học trò có hoàn cảnh khó khăn vươn lên trong cuộc sống. Trong tập luyện Thầy rất nghiêm khắc, đầu tiên người môn sinh Karate-Do phải học Lễ tiết (các phép tắc ứng xử Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ, Trung, Hiếu, Trí, Tín, Nhân…) Lễ là quy định những nghi thức, khuôn phép, luật lệ theo hình thái xã hội và Lễ cũng là luật tự nhiên của trời đất, con người phải biết ăn ở hợp với lẽ trời đất, xã hội, gia đình, thầy cô giáo và bè bạn. Lễ là một trong bốn đức tu dưỡng suốt đời (Lễ, Nghĩa, Liêm, Sĩ), "Đức" và "Lễ" là gốc đức hạnh của người công dân tốt trong mọi thời đại. Học Lễ để dưỡng nhân cách "Xem Lễ biết Văn, xem Văn biết Cảnh giới". Lễ là nghệ thuật đối nhân xử thế trong các mối quan hệ xã hội. Trong Karate-Do bắt đầu bằng chữ “Lễ” (禮) và kết thúc cũng bằng chữ “Lễ”). Sau đó, họ phải biết lắng nghe lời khuyên, nghiêm huấn của thầy và các bậc trưởng thượng thuộc hệ phái khác. Muốn tiến bộ, môn sinh phải nỗ lực đạt được tinh thần và thể chất đích thực của Không Thủ Đạo. Đối với Thầy, Không Thủ Đạo là một con đường tinh luyện bản tính con người và thanh tịnh hoá tâm thức, sự cẩu thả không cho phép trong hoàn cảnh nào. Việc tập luyện được đặt ra phải liên tục và học mỗi lần một ít nhưng không được nghỉ ngang. Mỗi ngày môn sinh phải tự giác hoàn thiện bản thân ba mặt : Trí dục, Đức dục và Thể dục, không để mờ nhạt, thoái hoá. Khi đã thăng tiến thực sự, người tập Không Thủ Đạo không được khoe khoang hãnh tiến, tự cao tự đại, tự thỏa mãn với vốn kiến thức và thành tích đã đạt được. Theo Thầy, thành công là một con đường đi chứ không phải là một điểm đích. Không tự bằng lòng với kiến thức và thành tích của mình mà luôn khiêm tốn học hỏi. Trên đời này có nhiều kẻ mạnh nhưng luôn có nhiều người mạnh hơn. Tự ti và tự phụ là căn bệnh làm thất bại việc luyện tập bởi Karate-Do cũng là một môn nghệ thuật nên không có tận cùng hoàn hảo. Một đòn thế căn bản của Karate tập hàng vạn lần mỗi ngày vẫn không đơn điệu mà nâng cao đó là tuyệt kỹ. Thầy Suzuki Choji là người nhân từ và luôn khiêm tốn nhưng chưa bao giờ từ chối một cuộc thách đấu của ai. Ngày mở khóa đặc biệt để đào tạo huấn luyện viên, Thầy đã từng chỉ bỏ tính kiêu căng và lòng tự mãn cho một võ sư người nước ngoài vào võ đường ông thách đấu. Kết quả, sau sáu tháng điều trị chấn thương vì gãy hai xương sườn người này đến xin ông thụ giáo. Giờ huấn luyện Thầy Suzuki Choji thường giảng về Võ đạo, Võ sử, Võ lý, sau đó mới ứng dụng thực hành kỹ thuật. Để minh hoạ đối kháng tự do ông giao đấu với các học trò lớn của mình rất ngoạn mục, một mình ông đấu với ba, bốn người và một tay ông không động thủ nhưng thân pháp thì cực kỳ nhanh nhẹn tưởng như tương phản với ngoại hình. Thầy luôn nhắc nhở học trò trong sinh hoạt hằng ngày không được nói dối, gian tham, vô cảm và hèn nhát. Trong văn hoá ứng xử giao tiếp người tập Không Thủ Đạo luôn khiêm tốn, biết xin lỗi, cảm ơn và cúi đầu chào người đối diện trước khi bắt tay xã giao. Người môn sinh Không Thủ Đạo hằng ngày luôn tập thói quen tốt với tâm thiện lành, được người chỉ trích phải xem lại mình để tiến thân. Không tùy tiện nói chuyện đời tư người khác. Đừng bỏ qua lỗi của mình thổi phồng lỗi lầm của người khác. Tránh lối sống chỉ biết hưởng thụ và vô ơn. Luôn thực hành thảo kính hiếu hạnh với cha mẹ, tôn trọng và biết ơn thầy cô giáo, thương yêu gia đình và bạn bè, các bậc tu sĩ chân chính và người lao động. Biết tự hoá giải cảm xúc. Không hứa khi đang vui. Không hành động khi đang giận. Chi tiêu phải tiết kiệm, ăn uống không quá độ, mặc không xa hoa thừa thải. Cấm cờ bạc đề độ, ma túy và không sử dụng các chất gây nghiện ngập. Không được hút thuốc lá, chửi thề nói lái tục và phóng xe vượt ẩu vì những thói hư tật xấu này làm ngăn trở hiệu năng của việc luyện tập và ảnh hưởng đến văn hoá đạo đức Karate-Do. Không sống hai mặt, cơ hội, gian tham được mình hại người nhưng luôn rèn luyện năng lực thích nghi phát triển tài lợi chính đáng. Tránh hão danh phiền muộn bất toại nguyện. Bớt chạy theo hào nhoáng của phương tiện sống mà tập trung vào mục đích sống, nỗ lực đạt được những mục tiêu lớn của đời người. Với mong muốn cuộc sống mọi người được bình yên nên cuối thập niên 60 Thầy Suzuki Choji đảm nhiệm công vụ bài trừ du đãng cùng phát triển Karate-Do tại Đà Nẵng và nhiều tỉnh thành miền Nam. Theo Thầy, việc luyện tập và trong công việc luôn lấy Kỷ luật, kỷ năng và đạo đức làm đầu. Trong Không Thủ Đạo không có tận cùng hoàn hảo, sự học không bao giờ thừa nhưng không chỉ dựa trên sức mạnh mà còn võ Đạo và nguyên lý khoa học, thẩm mỹ học, cơ thể học, triết học để sáng tạo và phát triển. Người thầy là người mở đường chỉ lối để cho những người khác bước chân theo làm cho con đường rộng ra và nhiều thêm. Trong đó, “Chuyên cần tập luyện rồi một ngày kia môn sinh sẽ trực ngộ” hoặc “Học võ để biết lợi hại của võ thuật mà phòng tránh và ứng dụng nó vào văn hoá ứng xử đúng Đạo làm người chứ không sử dụng vào mục đích xấu”. Cuối cùng, nhưng có lẽ là quan trọng nhất : “Các con không nên chú tâm vào chiến tích thấy được e dễ rơi vào cuồng vọng, tham đắm danh lợi hư vinh. Mục đích của Không Thủ Đạo là phải tự chiến thắng chính mình, đó mới là sự chiến thắng thượng thừa nhất của người võ sĩ Không Thủ Đạo”.
Trong sinh hoạt đời thường, Thầy Suzuki Choji có lối sống rất bình dị với phong thái tao nhã, tự tại không quan tâm chuyện lợi danh. Ông chủ trương phát triển võ thuật nhưng không thương mại hoá võ thuật. Ông ăn uống thích hợp, đạm bạc, đơn giản và cho rằng nền tảng sức khỏe nằm trong thực phẩm chúng ta dùng hằng ngày. Về trang phục, Thầy luôn tươm tất sạch sẽ, không cầu kỳ. Sở thích của Thầy là đọc sách, dã ngoại, du lịch nhiều nơi để hiểu biết mà làm giàu tri thức; thích gần gũi thiên nhiên và nghiên cứu Võ học, Phật học. Thầy cho rằng Karate-Do là một con đường tu dưỡng thân tâm đưa con người đến đỉnh cao bừng sáng trong tuệ giác và đạo đức, phẩm hạnh con người không chỉ là nền tảng của cuộc sống có ý nghĩa mà còn là bản lề sự thành công. Sống biết đủ, biết ơn, trân quý thực tại. Không phải sống được bao lâu, sống nhanh hay chậm mà cách sống như thế nào để khai minh khát vọng đóng góp những giá trị hữu ích cho đời chứ không phải làm thế nào để sống. Thân không bệnh, tâm không loạn, không lo âu sợ hãi, thân và tâm đều bình thản hướng đến tâm duy tác đó là chân hạnh phúc của đời người. Vào những thập niên 1940, 1950 và 1960, môn võ Boxing (Quyền Anh), Taekwondo và một số môn võ khác phát triển rất mạnh tại Việt Nam. Vì vậy, muốn phát triển trên diện rộng ông phải dạy võ Karate ở Ty cảnh sát thời ấy. Trước tình hình đó, mãi đến ngày 01 tháng 01 năm 1963 thầy Suzuki Choji mới chính thức khai giảng Đạo đường, truyền thụ cho một số môn đệ tâm huyết làm nòng cốt. Khoá võ sinh đầu tiên ông đã chọn lọc rất kĩ chỉ nhận rất ít học trò, trong đó có ông Nguyễn Nhuận (đã mất) là học trò đầu tiên, học trò thứ hai là ông Trần Đình Tùng, học trò thứ ba là ông Ngô Đồng (đã mất), tiếp đến là ông Khương Công Thêm, Hạ Quốc Huy, Bảo Trai, Trương Bá Lộc, Nguyễn Xuân Dũng (đã mất), Vĩnh Tung, v.v… Thầy luôn nhắc nhở học trò : “Người Võ sĩ Không Thủ Đạo với tính tự tin và nhẫn nhục là hai trong những đức tính căn bản nhưng đôi khi tuổi trẻ thường chủ quan chưa thấu suốt hơn, thua mà dễ dẫn đến hành động sai lạc”. Theo Thầy : Các con luôn chỉnh sửa tư duy và hành động, dùng sức mạnh của mình vào việc thiện thì có ích, cả ta và người đều được lợi "Tinh lực thiện dụng, tự tha cộng vinh" hoặc dụng ý bất dụng lực "Khuất phục kẻ xấu bằng con đường hoà bình chính là mục đích của Karate-Do” và “Làm giàu tri thức là làm giàu ứng xử, cuộc sống là một vòng tròn cho đi tức là nhận lại giúp người là giúp mình”. Hoặc “Hãy xem nhẹ phần Võ thuật để đi vào tinh túy của Võ đạo bằng sự cởi mở của tâm hồn và tinh thần phóng khoáng”, có khi Thầy cho rằng : “Trong sâu thẳm của Karate-Do có hai phần : Võ thuật và Võ đạo. Võ thuật tức là thuật đánh võ, chỉ giúp con người biết võ hoặc tinh thông để trở thành nghề võ còn Võ Đạo mới đưa con người đến tận cùng của cái Biết võ mà Hành võ. Đạo chính là đẳng cấp cao nhất, là sự giác ngộ mà người tập võ chân chính phải có hoài bão đạt đến”. Khi anh Hạ Quốc Huy thiết kế phù hiệu hệ phái theo ý tưởng của Thầy, Tổ sư Suzuki Choji giải thích : Biểu tượng đóa hoa sen sáu cánh ở giữa tượng trưng cho Lục hoà và Giác ngộ. Hai đóa hoa anh đào hai bên tượng trưng cho Giản dị và Tinh khiết. Ngoài ra, sự kết hợp hài hoà hai loài hoa còn mang ý nghiã tình hữu nghị Việt - Nhật. Nắm đấm bên trái với ý nghĩa luôn nhắc nhở người tập phải có trái tim nhân ái và đối xử công bằng. Ngoài ra, nắm đấm còn nhắc nhở môn sinh phải chăm chỉ rèn luyện kỹ thuật bên trái cũng thuận như bên phải. Màu đen, trắng của nắm đấm tượng trưng cho Âm - Dương. Màu đỏ của hoa sen biểu trưng cho sức sống, quyền lực, bác ái và hướng đến tương lai. Màu xanh của chữ tượng trưng cho sự chân thật, tự do, hoà hợp, hoà bình. Từ khi Đạo đường Suzucho Karate-Do Ryu Suzuki Dojo No En được thành lập, nó thu hút rất nhiều võ sinh, đa phần là sinh viên, học sinh bằng phương pháp truyền thống rất phong phú, khoa học và thực dụng như phương pháp Te Waza, Te Ashi Waza, Uke Waza, Ozodosa, v.v... Ngoài ra, Thầy còn truyền thụ phương pháp sử dụng binh khí Hệ thống Kobudo và kỹ thuật Trấn môn (Kumanote - 鎮 門). Binh khí Okinawa Kobudo hay Ryukyu Kobujutsu (古 武 道) hình thành và phát triển từ việc cấm tầng lớp nông dân mang vũ khí từ đầu thế kỷ 17. Như một phương tiện được mô phỏng từ những nông cụ thô sơ của nghề nông làm cho đối phương không ngờ, sát thương cao. Tuy nhiên, tất cả các loại binh khí là vật vô ký tính như dao hai lưỡi đúng hoặc sai là do người sử dụng. Nguồn gốc binh khí hệ thống Kobudo có từ các nước Đông Nam Á đồng hành với nghệ thuật chiến đấu bằng tay không để người tập quen thuộc tự bảo vệ và chống lại binh khí. Chương trình hệ thống đào tạo của Thầy cho một môn đồ lên đến Huyền đai ngoài các nội dung chương trình như về kỹ thuật căn bản (Kihon Waza), đối kháng (Kumite), quyền pháp (Kata) còn phát triển chuyên sâu sở đắc về phương pháp sơ cứu chấn thương (Kuatsu), v.v... Hệ thống quyền pháp của Suzucho Karate-Do Ryu rất phong phú gồm có các bài quyền phổ thông như : TJ Kata, HJ Kata, Yoko Kata, Sankanku Kata, Ashi Waza Kata (80 thế), ngoài ra còn có các bài quyền đặc dị như Maki, Yen Kata, v.v… nổi bật là các bài Maki Sandan Kata (84 thế) và Yen Rokudan Kata (120 thế).
Triết lý :
Suzucho là từ ghép giữa họ Suzuki và tên của ông là Choji (Linh Mộc Trường Trị) hay Linh Trường. Nó cũng có nghĩa là thể hiện khát vọng lưu truyền sự nghiệp trường tồn cho hậu thế như Tiếng chuông vang xa nên có tên gọi là Suzucho Karate-Do (Linh Trường Không Thủ Đạo). Khi khai sinh ra hệ phái Suzucho Karate-Do với kỹ thuật đặc trưng và hệ thống khoa học, thầy Suzuki Choji lấy 9 bài quyền để hệ thống quyền thức tiêu biểu gồm 6 bài Yen và 3 bài Maki. Con số 6 tượng trưng cho Lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), Lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc : cảm giác ở thân, pháp : cảnh ở tâm), Lục thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức). Con số 3 tượng trưng cho những tính chất Tốt, Xấu và Vô ký tính (không tốt không xấu). Nhiều người cho rằng con số 9 tượng trưng cho tính trung thực, hoài bão, trách nhiệm, tính kiên nhẫn và sự kiên định, nó rất đặc biệt vì tính chất không bao giờ thay đổi cho dù bạn nhân nó với bất kì số nào (9 x 3 = 27 và 2 + 7 = 9 hay 9 x 9 = 81 và 8 + 1 = 9, v.v…). Nó chỉ vạn vật phân tán đến cực độ có thể hoặc dùng bội số của số 9 để biểu thị số mục nhiều. Ngoài ra, nó luôn được coi như biểu trưng của quyền uy, sức mạnh và may mắn. Số 9 là sự phối hợp những yếu tố tượng trưng mang ý nghĩa cho sự toàn vẹn, viên mãn của Trời - Người - Đất. Đối với võ học, con số 9 còn mang ý nghĩa khác hàm chỉ người chuyên cần tập luyện thiền định thâm diệu sẽ thấu suốt được sự an trú của cõi giới Vô sắc.
Maki (卷):
Maki là quyển (cuộn) hoặc quyền lực, sức mạnh. Ở đây, nó mang thêm một ý nghĩa khác đó là sức mạnh tinh thần, giúp nhận thức đúng đắn về mọi lẽ Được - Mất, Hơn - Thua, Thắng - Bại, Vinh - Nhục, Giàu - Nghèo, Cao - Thấp, Khôn - Dại, Khen - Chê… của thế sự, người đời. Đó là sức mạnh tự thắp sáng để vượt qua những ghềnh thác trong phận người. Từ đó người tập un tập để phát triển tuệ giác chiến thắng bản thân.
Yen (円):
Yen là đồng tiền, mang ý nghĩa về sự giàu có. Đồng tiền có hai mặt, nó tốt hay xấu là tùy cách sử dụng của mỗi người, biết thì làm cho có ích, không biết thì bị nó làm hại. Ở đây, Yen không những chỉ sự sung mãn về vật chất mà còn là giàu có tri thức, giàu có lòng nhân ái và hành xử công bằng. Đó là quá trình sửa chữa tinh luyện bản tính con người, buông bỏ gian tham, hận thù đố kỵ, danh lợi, thấu suốt quy luật nhân quả, thanh tịnh hoá tâm thức để hướng đến một cuộc sống tốt đẹp cho hiện tại và mai sau. Chín bài quyền này tuy có phong cách thanh tao, uyển chuyển của nghệ thuật Không Thủ Đạo cổ truyền Viễn Đông nhưng ứng dụng thực chiến rất thực dụng. Sau này, chúng đã trở thành những bài quyền đặc dị của hệ phái Suzucho Karate-Do.
Cũng từ chiếc nôi này, học trò của Thầy không chỉ rèn luyện đầy đủ yếu tố tinh thần và thể chất của Võ sĩ đạo để phát triển hệ phái Suzucho Karate-Do mà còn lan tỏa rộng khắp do ứng dụng nghệ thuật Karate-Do trong đời sống. Phần lớn họ đã thành danh ở rất nhiều lãnh vực, có nhiều người trở thành nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu, hoạ sĩ, điêu khắc gia, kiến trúc sư, bác sĩ, kỹ sư, giáo viên, ca sĩ, doanh nhân, v.v… Mỗi môn sinh đều cho rằng Karate-Do là con đường của cuộc sống, là một loại hình nghệ thuật tự vệ có Đạo cần trau dồi luyện tập suốt đời không coi trọng những Thắng - Bại, Hơn - Thua, Được - Mất, v.v…, không xem là phương tiện vì mục đích tranh giải để thắng, thua, khoe khoang bản thân xuất chúng hơn người mà cốt lõi là học Đạo để sửa chữa bản ngã, chiến thắng bản thân bởi bản ngã càng lớn khổ đau càng nhiều. Đó chính là đẳng cấp cao nhất của một Karateka (空 手 家). Họ đề cao lòng nhân ái, cao thượng và chia sẻ tương tác không xem ai là đối thủ mà những người anh em giúp nhau cùng tiến bộ. Đa phần người bị bạo lực đường phố thường nung nấu nuôi dưỡng ý định trả thù nhưng khi đến Đạo đường Suzucho Karate-Do Ryu rèn luyện một thời gian họ biết tha thứ, buông xả lãng quên và không còn thù hận. Đạo đường là nơi giáo dục thể chất và phẩm hạnh lễ nghĩa, thanh tẩy tham đắm danh lợi, hận thù ganh ghét đố kị, tâm phân biệt hẹp hòi, giữ trong sạch ý nghĩ, lời nói và việc làm. Thầy, trò gác bỏ danh phận xã hội để cùng chung niềm đam mê rèn luyện sức khoẻ và nhân cách trở thành những người hữu ích cho gia đình và xã hội. Karate-Do là con đường an trụ nhân tâm xuyên suốt phận người để hoàn thiện nhân cách. Cấp đẳng của Suzucho Karate-Do Ryu biểu trưng Sắc cũng như Không và Không cũng như Sắc tạo tác biến đổi tánh Không của Vạn pháp (萬 法 - Sunyata - đai màu trắng chuyển dần thành màu đen, sau đó màu đen chuyển dần thành trắng). Nhằm bảo tồn truyền thống và kết hợp với tinh hoa của Karate quốc tế, từ thời gian trước đến nay Suzucho Karate-Do Ryu đã có các hệ phái, chi phái, phân đường của học trò Thầy Suzuki Choji phát triển lấy tên Hán Việt như : Karate Minh Đạo (1966) của Võ sư Nguyễn Nhuận, Karate Cương Nhu (1966) của Võ sư Ngô Đồng, Karate Quyền Đạo Việt Nam (1982) của Võ sư Hạ Quốc Huy (Huyền đai Đệ Cửu đẳng) và các Phân đường như : Nhân Trí Dũng của Võ sư Hoàng Như Bôn (Huyền đai Đệ Bát đẳng), Nghĩa Dũng của Võ sư Nguyễn Văn Dũng (Huyền đai Đệ Thất đẳng) và có nhiều Phân đường mang nhiều ý nghĩa khác như Bodankumi của Võ sư Lê Văn Thạnh (Huyền đai Đệ Cửu đẳng), Sakura của Võ sư Ngô Văn Thanh (Huyền đai Đệ Bát đẳng), Choju của Võ sư Trương Đình Hùng (Huyền đai Đệ Bát đẳng), Fuji của Võ sư Nguyễn Tấn Kiệt (Huyền đai Đệ Bát đẳng), Shiro Uma của Võ sư Nguyễn Đình Kỉnh (Huyền đai Đệ Thất đẳng) v.v… Từ khi hình thành và phát triển đến nay, hệ phái Suzucho Karate-Do có 15 đời Trưởng tràng : Nguyễn Nhuận (1965 - 1966), Khương Công Thêm (1966 - 1967), Nguyễn Xuân Dũng (1967 - 1969) Hạ Quốc Huy (1969 - 1970), Trần Đình Tùng (1970 - 1971), Hoàng Như Bôn (1971 - 1972), Nguyễn Bá Kiều (01- 03/1973), Lê Văn Thạnh (1973-1986), Ngô Văn Thanh (1986 - 1987), Lê Văn Thạnh (1987 -1989), Hoàng Như Bôn (1989 - 1990), Khương Công Thêm (1990 - 1994), Nguyễn Văn Dũng (1995 - 2006), Lê Văn Thạnh (2006 - 2012), Lê Văn Thạnh (2012 - 2017). Để phát triển hệ phái Suzucho Karate-Do và nền Karate-Do Việt Nam các cao đồ của thầy Suzuki Choji không chỉ với mục đích huấn luyện tranh giải mà còn bằng hình thức quảng bá hệ phái Suzucho Karate-Do khắp mọi nơi từ giai đoạn đầu năm 1963 đến nay đó là những tác phẩm đã xuất bản như cuốn : Huyền đai Karate (NXB Khai Trí - 1967), Linh hồn Không Thủ Đạo (1970), Kỹ thuật Nunchaku (1974) của Võ sư Nguyễn Xuân Dũng, Bài quyền Karate của Võ sư Hạ Quốc Huy (1970). Sau này, còn có nhiều tác phẩm khác như : Karate - Bài quyền từ đai trắng đến đai đen của Võ sư Nguyễn Văn Dũng (NXB Thuận Hoá - 2007), Giáo trình chuẩn hoá kỹ thuật quyền pháp Suzucho Karate-Do Ryu và Giới thiệu Karate-Do Thể thao của Võ sư Lê Văn Thạnh (NXB Thuận Hoá - 2009), Kỷ yếu Suzucho Karate-Do Ryu - Võ đường Karate-Do Bạch Mã (2012) của Võ sư Nguyễn Đình Kỉnh, Karate-Do – Nghệ thuật tự vệ thực dụng của Võ sư Phan Chi (NXB Thuận Hoá - 2013), Bunkai Te Waza 50 Thế của Võ sư Haruo Suzuki (Ngô Văn Quý) (2017), Đạo đường Choju Suzucho Karate-Do một chặng đường của Võ sư Trương Đình Hùng (2017), Hành trình đến với Suzucho Karate-Do Ryu của Võ sư Haruo Suzuki (Ngô Văn Quý) (2018)... Ngoài chiếc nôi Suzucho Karate-Do Ryu ở Thành phố Huế, các Đạo đường của hệ phái này đầu tiên ở Sài Gòn vào năm 1972 là Champion Karate, 193 - Trần Hưng Đạo và ở Gia Định là Đạo đường Bảo Quốc. Các Đạo đường này do Võ sư Nguyễn Xuân Dũng, Hà Thúc Giác, Nguyễn Chí Trí, Ngô Văn Thanh phát triển. Sau đó, còn có Đạo đường của Võ sư Nguyễn Thông phát triển ở Sài Gòn và Võ sư Võ Đại Vạn phát triển ở Gia Định…
Năm 1975, tại Thừa Thiên Huế - chiếc nôi của nền Karate-Do truyền thống, có rất nhiều học trò đã tiếp nối bước thầy qua nhiều hình thức phát triển hệ phái. Tại Thủ đô Hà Nội năm 1979, Suzucho Karate-Do Ryu được giới thiệu quảng bá do Võ sư Lê Văn Thành, Nguyễn Thành Tự. Đến năm 1984, Võ sư Lê Văn Thạnh (Đệ Cửu đẳng Karate-Do Suzucho Ryu, Đệ Ngũ đẳng Karate-Do Shotokan Ryu, Trưởng tràng Hệ phái Suzucho Karate-Do, Phó Chủ tịch Liên đoàn Karate-Do Việt Nam, Huấn luyện viên Đội tuyển Karate-Do Việt Nam, Trọng tài Quốc gia, Trưởng bộ môn Karate-Do Thừa Thiên Huế, Chuyên gia Karate-Do Đội tuyển Lào) đã phát triển Suzucho Karate-Do Ryu tại Thủ đô Hà Nội. Ngoài ra còn có nhiều cao đồ rất nổi tiếng đã góp phần cống hiến làm nên sự nghiệp Karate-Do Việt Nam vẻ vang như Võ sư Nguyễn Văn Dũng, Võ sư Hoàng Như Bôn, Võ sư Ngô Văn Thanh, Võ sư Nguyễn Đình Kỉnh, Võ sư Lê Văn Lộc ở Thừa Thiên Huế, Võ sư Lê Công ở Hà Nội, Võ sư Nguyễn Tấn Kiệt ở Nha Trang, Võ sư Võ sư Đoàn Thanh Yến, Võ sư Nguyễn Ngọc Thạo, Võ sư Hoàng Công Minh, Võ sư Nguyễn Dũng Chinh ở TP. Hồ Chí Minh, Võ sư Trương Đình Hùng ở Đồng Nai, v.v… đã phát triển trong và ngoài nước hàng vạn môn sinh Karate-Do. Bên cạnh đó, còn có các võ sư : Khương Công Thêm, Trương Bá Lộc, Vĩnh Tung, Phạm Lạc, Võ Đại Vạn, Nguyễn Thành Vinh, Trần Định, Hoàng Như Bôn, Tôn Vĩ Đại, Trương Dẫn, Trần Văn Thuận, Nguyễn Bá Kiều, Trương Đình Dũng, Lê văn Thành, Nguyễn Thành Tự, Nguyễn Thông, Huỳnh Văn Đàng, Hồ Hùng, Phan Hữu Bốn, Trần Văn Lợi, Phan Chi, Ngô Đức Hiếu, Hoàng Mai Sơn, Nguyễn Đăng Lộc, Nguyễn Văn Hoá, Nguyễn Mạnh Thắng, v.v… cũng có những đóng góp rất đáng kể. Ở nước ngoài có rất nhiều võ sư thành danh đã phát triển hệ phái Suzucho Karate-Do lớn mạnh như: Trần Đình Tùng, Bảo Trai, Nguyễn Xuân Dũng, Hạ Quốc Huy, Cao Xuân Minh Tú, Ngô Văn Quý, Phan Văn Minh Ý, Hiroshi Ishida, Edward Nguyễn, Tony Ngô, Henry Lâm, Thắng Nguyễn, Jennifer Nguyễn, Tanya Nguyễn, Michael Phạm, Bryan Quách, v.v… Nhiều võ sư xuất sắc của hệ phái Suzucho Karate-Do đã khôi phục và phát triển với quy mô rộng lớn, họ đào tạo nhiều đội ngũ vận động viên, huấn luyện viên, trọng tài Karate-Do giành nhiều huy chương vàng, bạc ở các giải Khu vực, Châu lục và Thế giới. Để phát triển trên diện rộng phù hợp với giai đoạn đất nước hội nhập và phát triển, hệ phái Suzucho Karate-Do hoà nhập với Karate hiện đại và Karate cổ truyền Nhật Bản đã chuẩn hoá kỹ thuật hài hoà với bốn lưu phái lớn là : Shotokan Ryu (Tùng Đào Quán Lưu), Wado Ryu (Hoà Đạo Lưu), Sh*to Ryu (Mịch Đông Lưu) và Okinawa Goju Ryu (Cương Nhu Lưu), khẳng định nét đặc trưng của Karate-Do Việt Nam. Trong quá trình hình thành và phát triển hệ phái Suzucho Karate-Do đã tiến hành Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ I vào tháng 12 năm 1994 tại TP. Hồ Chí Minh và đã qua mười lăm lần đại hội nhằm xây dựng và phát triển hệ phái. Năm 2007 hệ phái Suzucho đã Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIV (nhiệm kỳ 2007 - 2012) tại TP. Hồ Chí Minh, thống nhất 9 chương trình hành động cụ thể của nhiệm kỳ này với tinh thần đoàn kết, trí tuệ, sáng tạo, chủ động hội nhập và phát triển. Đại hội đã thông qua sửa đổi môn quy, quyết định hệ phái có tên gọi là Suzucho Karate-Do Ryu (Linh Trường Không Thủ Đạo Phái), Tổ sư của Suzucho Karate-Do Ryu là Suzuki Choji (Phan Văn Phúc), người lãnh đạo thứ hai của Suzucho Karate-Do Ryu là Chưởng môn : Suzuki Tokuo (Phan Văn Minh Đức), Thư ký Chưởng môn : Võ sư Suzuki Haruo (Ngô Văn Quý), Trưởng tràng : Võ sư Lê Văn Thạnh. Ngày 10 tháng 6 năm 2012 Hệ phái Suzucho Karate-Do đã Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XV (nhiệm kỳ 2012 - 2017) tại TP. Huế. Mục tiêu của đại hội lần này là tích cực đẩy mạnh bồi dưỡng nâng cao kỹ, chiến thuật đặc trưng Suzucho Karate-Do Ryu, tiếp tục đào tạo trọng tài, vận động viên xuất sắc đóng góp vào thành tích cho nền thể thao Việt Nam. Chánh Văn phòng Chưởng môn là Võ sư Suzuki Haruo (Ngô Văn Quý), Trưởng tràng là Võ sư Lê Văn Thạnh.
Sau năm 1975, Tổ sư Suzuki Choji chuyển giao công việc điều hành Đạo đường cho các học trò lớn của mình và vào sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến ngày 15 tháng 01 năm 1978 Thầy và gia đình hồi hương về Nhật Bản sống tại Thành phố Tagajo Shi, Tỉnh Miyagiken, Japan. Sau 34 năm lưu lạc ông trở thành người gieo hạt giống đầu tiên và bắc nhịp cầu nối giữa Karate Việt Nam và Karate quốc tế hiện đại. Tuy ở xa, ông vẫn lãnh đạo hệ phái và làm cho Suzucho Karate-Do ngày càng lan tỏa mạnh mẽ. Ước vọng của ông là về thăm quê hương Việt Nam một lần nhưng ngày 06 tháng 02 năm 1995 Tổ sư Suzuki Choji đã qua đời tại quê nhà Kasagami. Cuộc đời thanh bạch giản dị, tâm hồn tĩnh lặng như mặt nước hồ mùa thu và sáng chói như trăng rằm của thầy Chưởng tổ đã để lại một dấu ấn sâu sắc bởi tài năng và đạo đức. Ngày 30 tháng 08 năm 2013 Tổ mẫu Suzuki Reiko, nhũ danh Nguyễn Thị Minh Lệ đã giã từ cõi tạm tại Las Vegas, Nevada, Hoa Kỳ để lại trong lòng tất cả môn đồ một sự mất mát to lớn, một nỗi niềm thương tiếc vô hạn.
Hệ phái Suzucho Karate-Do có độ dày hoạt động trên năm mươi năm và nhất là Chưởng Tổ Suzuki Choji sống gắn bó hơn nửa cuộc đời mình với đất nước Việt Nam - Nơi có truyền thống văn hoá và lịch sử hào hùng nên hấp thụ nền văn hoá ở đây và ông xem Việt Nam là quê hương thứ hai. Đạo lý Suzucho Karate-Do Ryu dựa trên lẽ sống cao thượng, tinh thần bình đẳng, công bằng và nhân ái mang tính nhân văn. Vì thế, hệ phái này tại Việt Nam cũng như trên thế giới có lực lượng môn sinh luyện tập đông đảo nhất. Hiện nay có hàng vạn người tập luyện hằng ngày với năm khu vực của sáu mươi tư tỉnh, thành. Có hàng trăm Câu lạc bộ Suzucho Karate-Do Ryu tại các trường đại học trong nước, đưa Karate-Do Việt Nam đứng hàng đầu khu vực. Ngoài ra, hệ phái còn có rất nhiều Phân đường, Câu lạc bộ ở các quốc gia khác như Australia, Hoa Kỳ, Canada, Anh, Pháp, Đức, Bỉ, Ý, Áo, Hà Lan và Đông Âu, v.v… được thành lập đã phát triển lớn mạnh. Với truyền thống uống nước nhớ nguồn, tôn sư trọng đạo, để các môn đồ có dịp ghé thăm dâng hương tưởng nhớ Tổ sư, Tổ mẫu. Tổ đường Hệ phái Suzucho Karate-Do được đặt tại : 43142 Continental Dr. Fremont CA. 94538, Hoa Kỳ. Đây là nơi thờ phụng, lưu giữ những hình ảnh, sách báo và kỷ vật lưu niệm về sự nghiệp của Tổ Sư Suzuki Choji. Tại Việt Nam vào đầu thập niên 60 có một số hệ phái Karate du nhập phát triển nhưng Suzucho Karate-Do Ryu vẫn được nhiều người ghi nhận là hệ phái có sớm nhất đã hình thành Karate Việt Nam, phát triển lớn mạnh nổi bật từ ngày đầu tiên cho đến hôm nay. Để ghi nhớ tri ân Tổ sư Suzuki Choji - Người đầu tiên gieo hạt giống Karate vào Việt Nam năm 1944 với công sức đóng góp và thành tựu của ông, ngày 28 tháng 10 năm 2017, Đạo đường số 08 - Võ Tánh (nay là số 08 - Nguyễn Chí Thanh Tp. Huế) - Chiếc nôi của Suzucho Karate-Do Ryu, nay đã trở thành Nhà lưu niệm Suzucho Karate-Do Việt Nam.
Thời gian qua, Karate-Do Việt Nam đã gặt hái nhiều thành quả vẻ vang với rất nhiều huy chương vàng, bạc ở các giải Khu vực, Châu lục và Thế giới mang vinh quang về cho Tổ quốc. Bên cạnh đó, Suzucho Karate-Do Ryu rất coi trọng việc giáo dục môn sinh phát triển dựa trên truyền thống đạo đức, lễ nghĩa, truyền thống tôn sư trọng đạo, uống nước nhớ nguồn, truyền thống văn hay võ giỏi, yêu thiên nhiên và nghệ thuật. Giáo dục lối sống lành mạnh, tính trung thực không tham dối, tinh thần tự chủ và sáng tạo. Những phẩm chất ứng xử rõ ràng, mạnh mẽ, dứt khoát, không áp đặt "chuẩn mực" của mình lên người khác cũng là những tiêu chí hệ phái muốn môn sinh rèn luyện, học tập định hướng tương lai. Noi theo những tấm gương sáng từ Tổ sư và các vị tiền bối, các môn sinh được giáo dục lòng biết ơn, tình thương yêu gia đình và mọi người, phẩm chất đạo đức từ tuổi hoa niên. Để từ đó, họ không sống vô cảm, biết giúp đỡ người hoạn nạn, chia sẻ người có hoàn cảnh khó khăn. Không sống xa hoa khoe khoang buông thả, vị kỷ cá nhân hẹp hòi, sùng bái vật chất sẽ dễ dẫn đến suy thoái đạo đức. Các môn sinh có ý thức bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người cô thế, bảo vệ môi trường không ngược đãi thiên nhiên, tương tác chia sẻ tạo điều kiện để người khác cùng tiến bộ như mình, có tâm thiện lành và sống vì mọi người. Hằng ngày môn sinh tự giác điều chỉnh, sửa chữa lỗi lầm hoàn thiện chính mình để chiến thắng bản thân với tinh thần và tâm hồn Võ Đạo (武 道). Bởi võ thuật chỉ là phương tiện, thấu suốt Võ Đạo mới phát triển võ thuật đúng đạo làm người, nếu không, thắng hoặc bại cũng chỉ là võ biền, háo danh cầu lợi. Người tập nâng cao tri thức, trí đạo, tâm đức, ứng xử hài hòa trong cuộc sống, ý thức tự giác rèn luyện thể lực để góp phần củng cố sức khỏe cộng đồng chứ không xem Karate-Do dưới góc độ đơn thuần là thể thao tranh giải. Mục đích của sự tập luyện là để chiến thắng chính mình, ngăn chặn tương tranh, tham đắm danh lợi. Không tìm kiếm những thứ không cần thiết, an lạc là ngay bây giờ hoặc không bao giờ. Luôn biết ơn và có một lối sống tự chủ, đổi mới, sáng tạo từng bước hoàn thiện nhân cách, hình thành một phong thái tao nhã, bình thản thuận theo tự nhiên, bản thân không chứng tỏ. Sự nỗ lực tự rèn luyện mọi mặt của các môn sinh có tác dụng trong việc đổi mới làm cho cuộc sống thêm ý nghĩa, có giá trị đích thực. Tổ chức hệ phái Suzucho Karate-Do hoạt động theo truyền thống của cố Chưởng môn đời thứ nhất : Suzuki Choji, được sự bảo trợ của Ủy ban Thể dục Thể thao Việt Nam. Chưởng môn bổ nhiệm Trưởng tràng thành lập Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và các Ban Chuyên môn. Chưởng môn có thể bãi miễn nếu Trưởng tràng và Ban Chấp hành làm việc không hiệu quả. Ngày nay, Suzucho Karate-Do Ryu đã phát triển rộng khắp trên thế giới và được coi là một trong những hệ phái mạnh của các hệ phái Karate. Hằng năm môn sinh của Tổ sư Suzuki Choji lấy ngày 10 tháng 06 làm Ngày Truyền Thống của Hệ phái.

Chưởng môn SUZUKI TOKUO
(Phan Văn Minh Đức)
Chưởng môn đời thứ II Hệ phái Suzucho Karate-Do là Suzuki Tokuo (Phan Văn Minh Đức) sinh ngày 23 tháng 02 năm 1957 tại Thành phố Huế, Tỉnh Thừa Thiên, Việt Nam. Suzuki Tokuo là Trưởng nam của Tổ sư Suzuki Choji. Năm 1963 : Ông được Tổ sư Suzuki Choji đích thân truyền dạy Karate-Do và Judo tại Đạo đường Linh Trường Không Thủ Đạo số 8, Võ Tánh, Thành phố Huế.
- Từ năm 1972 : Ông là Huấn luyện viên các khoá Karate-Do và Judo tại Đạo đường Linh Trường Không Thủ Đạo số 8, Võ Tánh, Thành phố Huế.
- Ngày 15 - 01- 1978 : Ông theo Tổ sư Suzuki Choji hồi hương về Nhật Bản sống tại Thành phố Tagajo Shi, Tỉnh Miyagiken, Japan và được Tổ sư thường xuyên truyền dạy Karate-Do, Judo, Y học và khoa châm cứu gia truyền.
- Từ năm 1978 đến năm 1983 : Ông theo học và tốt nghiệp Đại học Khoa ngoại ngữ tại Tagajo Shi, Miyagiken, Japan thuộc Bộ Văn hoá Giáo dục Nhật Bản.
- Từ năm 1983 đến năm 1987 : Ông tốt nghiệp Đại học Quản trị Kinh doanh ngành Thực phẩm Daimaru ở Yamagataken, Japan.
- Từ năm 1986 đến năm 1996 : Ông là Trưởng cửa hàng thuộc Công ty Thực phẩm Tokyu ở Sendai Shi, Miyagiken, Japan.
- Năm 1996, ông là Phó Giám đốc Công ty Thực phẩm Tokyu ở Shendai Shi, Miyagiken, Japan. Năm 2002, ông là Chủ nhà hàng Đặc sản Việt Nam đầu tiên và duy nhất ở miền bắc Nhật Bản thuộc Thành phố Sendai, Tỉnh Miyagiken, Japan.
- Từ năm 1995 đến nay : Võ sư Suzuki Tokuo là Chưởng môn Đời thứ II Hệ phái Suzucho Karate-Do.

Nguồn :
PHAN CHI
(Huyền đai Đệ Lục đẳng - Uỷ viên Biên tập Văn phòng Chưởng môn)

Want your business to be the top-listed Gym/sports Facility in Quang Nam?
Click here to claim your Sponsored Listing.

Videos (show all)

DACHI waza
HEIAN NIDAN BUNKAI 🥋#TamAnhKarate
Tại sao phải đỡ bằng cạnh cẳng tay ?
KARATE 🥋
DACHI WAZA
Bán kết KATA cá nhân nữ lứa tuổi
Chung kết KATA cá nhân nam lứa tuổi
Karate là môn học suốt đời !
Bên cạnh sự kỷ luật, nề nếp và những giờ tập luyện căng thẳng thì điều mà CLB muốn mang đến cho các em là sự thư giản, v...

Category

Telephone

Website

Address

Quang Nam

Other Sports Teams in Quang Nam (show all)
CLB Bóng Chuyền THPT Trần Cao Vân CLB Bóng Chuyền THPT Trần Cao Vân
Phường An Mỹ, Thành Phố Tam Kỳ, Tỉnh Quảng Nam
Quang Nam, 51106

Chào mừng đến với CLB Bóng Chuyền Dragons, nơi sinh ra những chú rồng dũng mãnh thống trị bầu trời

FC Suối Đá FC Suối Đá
Quang Nam

Group Suối Đá

FC Bất Ổn FC Bất Ổn
Quang Nam

FC Anh Em FC Anh Em
TT Hương An, Quế Sơn
Quảng Nam

Sportme Sportme
Quang Nam

SPORTME-KỶ NGUYÊN CN MỚI! 1.Hỗ trợ quản lý sân-doanh thu dễ dàng. 2.Tạo cộng đồng yêu thể thao.

PSG_fan clup in Viêt Nam PSG_fan clup in Viêt Nam
Quang Nam

cập nhập cái thông tin từ clb PSG

Lionel Messi fan Lionel Messi fan
Huyện Tây Giang
Quang Nam, 51811

fan Messi

Bóng đá Việt Nam FC Bóng đá Việt Nam FC
Viet Nam
Quang Nam, 550000

Nơi giao lưu gặp gỡ của những người hâm mộ Bóng Đá Việt Nam và HLV Park Hang Seo

DLS 2023 - Khoa Anh Fc DLS 2023 - Khoa Anh Fc
Đường Hồ Chí Minh
Quang Nam

Thành lập: 1/7/2023

Tự Lập FC Tự Lập FC
Quang Nam

� Tự Lập FC � - Chúng ta đá bóng vì đam mê chứ không phải để chứng minh với bất kì ai - Không cần hứa sẽ đi cùng nhau, nhưng hiện tại chúng ta hãy cố gắng vì nhau nhé!

FC Le TTonnerre FC Le TTonnerre
Hội An
Quang Nam

Võ Đường Hồng Nhân Trí Võ Đường Hồng Nhân Trí
Quốc Lộ 1A
Quang Nam

Với sứ mệnh mang võ thuật đặc biệt là Taekwondo đến gần hơn với mọi người🥰